Saturday, April 27, 2024
Thursday, March 21, 2024
TỪ LỆNH BỎ HUẾ NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 1975 : VĨNH BIỆT CHỐN KINH KỲ
Nguyễn Tiến Hưng
Hình chụp hôm 24/3/1975, tàu Hải quân VNCH chở dân di tản từ Huế cập bến Đà Nẵng. (Photo by Bettmann/CORBIS)
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công Chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ ‘Hóa’ dần dần đọc trại đi thành “Huế.”
Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ. Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?
Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.
Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng 3, 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của VNCH. Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:
“Trong mười hai ngày tiếp theo sau bưổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sàigòn về việc nên giữ lại những phần nào ở QĐ I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế.”
Tiến thoái lưỡng nan
–“Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?”
TT Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng 3, 1975. Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ tọa của TT Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó TT Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm:
Về phía quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.
Về phía dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.
Sau khi tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, TT Thiệu nhấc máy điện thoại gọi tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:
— Trung tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”
— TT Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”
— Trung tướng Trưởng“Ngày một ngày hai.”
— TT Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết
định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).
Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3
Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để trình bày kế hoạch rút lui lên tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.
Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):
Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
- Kế hoạch thứ nhất: nếu quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
- Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ.
Vì lúc ấy “không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: “ ‘chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ.’ Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự.”
Trong cuộc họp ngày 19 tháng 3, TT Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì QL 1 đã bị chặn: “Tôi nói với tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý.” Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói:“Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh.”
TT Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì “Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế.” Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi? TT Thiệu trả lời:”Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là QĐBV đã bắt đầu pháo vào bộ chỉ huy rồi.
Việc Tướng Thi báo cáo bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới. Cũng theo lời TT Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi – Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.
Nhưng mặc dù TT Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.
Vào thời điểm này thì đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng 3) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6. Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.
Năm ngày trăn trở về Huế
- Ngày 23 tháng 3, 1975, theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: “Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng.” Sau đó, sáng ngày 24 tháng 3, Tướng Thi và Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…”
- Ngày 25 tháng 3, theo ĐT Viên: “tất cả các đơn vị của quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: tổng thống Thiệu ra lệnh tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó tướng Trưởng ra lệnh cho Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…”
“Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…” (sđd., 171).
Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975
Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25/3, sau khi TT Thiệu hỏi Tướng Trưởng “nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu,” ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được “ngày một ngày hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):
“Thứ nhất, bỏ Huế;
“Thứ hai, phải làm cho lẹ; và
“Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng.”
TT Thiệu thở dài: “Mình trông cậy vào ba ‘enclaves’ (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng.” Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.
Trong cuốn ‘Decent Interval,’ tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:
“Đang khi Tướng Trưởng trình bày với TT Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát.”
Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa Hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết. Chính phủ chỉ định cho mỗi Bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế Hoạch.Trong một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ. Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình. Thật vậy, với 20,000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất it cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.
*
Ngày 26 tháng 3, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp: Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi. Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng 3). Giữa cuộc họp thì TT Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:
— TT Thiệu: “Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?’
— Tướng Trưởng: (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp):
“Đang bị đánh vài trận.”
Cùng ngày bỏ Huế, TT Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford. Mở đầu có câu: “Thưa Tổng Thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe dọa.” Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề “Saigon, March…, 1975” để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số “25” thật to, tức là “Saigon, March 25, 1975.” Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh Văn Phòng tổng thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.
Gửi thư đi rồi, TT Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.
Nhưng nhận được thư SOS, TT Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống thay TT Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho TT Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Tòa Bạch Ốc: “Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với VNCH trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196). TT Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:
“Chiều ngày 25 tháng 3 (ngày 26 giờ Sàigòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sàigòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ.”
Nói rằng “Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào” thì đúng là nói dối. Ông đã nhận được thư SOS của TT Thiệu và của lưỡng viện VNCH, lại đươc nghe Đại Sứ Graham Martin từ Sài gòn về báo cáo. Sau này ĐS Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với TT Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sàigòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, TT Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.
Hồn khí linh thiêng nơi cố đô
Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của VNCH để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến. Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).
Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị QH Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.
Nhưng đúng là “hoạ vô đơn chí.” Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.
Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.
Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.
Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?
Nguyễn Tiến Hưng
Nguồn: https://vietbao.com/a292265/tu-lenh-bo-hue-ngay-25-3-1975-vinh-biet-chon-kinh-ky-
Thursday, March 7, 2024
PHÁI ĐOÀN QUỐC HỘI MỸ PHÁT ĐI TÍN HIỆU BẬT ĐÈN XANH CHO BẮC VIỆT KHỞI ĐỘNG ‘ CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN ’
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng
Phái đoàn Quốc Hội Mỹ tới Sàigòn thẩm định nhu cầu $300 triệu
Dân biểu Bella Abzug đứng giữa Dân biễu VNCH Trương Thị Bích Diệp và Dân biểu Paul McCloskey (Hình: Phủ Tổng Thống) |
Cuộc họp Việt - Mỹ căng thẳng nhất trong 20 năm cuộc chiến
Triệu đôla Lục Quân: 203 68% Đạn, xăng 132 44% Thuốc men 6 2% Đồ phụ tùng 48 16% Vật liệu khác 17 6%
Các phi vụ 29 10% Đạn dược 13 4% Đồ phụ tùng 32 10% Vật liệu khác 17 6%
|
|
|
|
Tôi ghi lại từng chữ một câu phát biểu khác:
“Chúng tôi nghĩ rằng viện trợ Hoa Kỳ sẽ tùy thuộc vào một số yếu tố, như việc thả tù binh chính trị, chống tham nhũng, việc thành lập một Lực Lượng Thứ Ba. Quý vị đã làm gì cho các vấn đề này? Chúng tôi rất quan tâm.”
Bữa tiệc cuối tại Dinh Độc Lập
Từ cuộc họp nảy lửa Việt – Mỹ tới ‘Chiến Dịch Tây Nguyên’
Saturday, March 2, 2024
CUỘC CHIẾN UKRAINE ĐỊNH HÌNH LẠI CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI
LÊ TÂY SƠN
Khi vũ khí rẻ tiền và đắt tiền đều hiệu quả như nhau
Drone “biết trước” mọi thứ nên việc tập trung xe tăng và người để tốc chiến tốc thắng gần như là không thể. Đeo kính video, một người lính Ukraine cúi mình trên tầng cao nhất của một tòa nhà cao tầng và điều khiển một chiếc drone nhỏ bay vào thành phố Bakhmut do Nga chiếm đóng. Sau một tiếng vút, chiếc drone chỉ tốn khoảng $300 tăng tốc sau khi phát hiện một mục tiêu bất ngờ và làm nổ tung một chiếc xe bán tải chở đầy quân Nga.
“Phi công” (người điều khiến drone), thành viên của Trung tâm Điều hành Đặc biệt “A” (Special Operations Center “A”) thuộc Cơ quan An ninh Ukraine (Security Service of Ukraine), nói với Wall Street Journal: “Trước khi chúng tôi đến đây để điều khiển drone, người Nga đi lại đông đến mức gây ùn tắc giao thông ở Bakhmut. Bây giờ, tất cả các con đường ở thành phố này đều vắng tanh!”. Với hàng ngàn drone của Ukraine và Nga bay rợp các chiến tuyến cùng một thời điểm (từ drone bốn cánh giá rẻ đến drone có cánh tầm xa đắt tiền bay xa hàng trăm dặm và bám sát mục tiêu nhiều giờ liền, bản chất của chiến tranh đã thay đổi.
Drone chỉ là một yếu tố của sự thay đổi hình thái chiến trường. Một thay đổi khác là các hệ thống quản lý chiến đấu tích hợp (integrated battle-management systems) cung cấp hình ảnh và vị trí của đối phương theo thời gian thực đến cấp trung đội và tiểu đội (hệ thống của Ukraine dùng mạng vệ tinh Starlink) đã giúp việc nhắm mục tiêu gần như ngay lập tức.
Drone là vũ khí rẻ tiền nhưng nguy hiểm nhất trong cuộc chiến Ukraine (ảnh: Paula Bronstein/Getty Images) |
_______________
“Ngày nay, một đoàn xe tăng hoặc một đoàn quân đang tiến lên sẽ dễ dàng bị phát hiện trong vòng ba đến năm phút và bị đánh trúng sau ba phút nữa. Khả năng sống sót không quá 10 phút!” – Thiếu tướng Vadym Skibitsky, phó chỉ huy Cơ quan Tình báo Quân sự (HUR) của Ukraine nhận xét – Yếu tố bất ngờ hầu như không còn chỗ trên chiến trường”.
_______________
Cuộc cách mạng công nghệ thể hiện tại cuộc chiến lớn nhất ở châu Âu trong gần tám thập niên qua đã đặt ra câu hỏi nghiêm túc về tính khả thi của một số khái niệm cơ bản trong học thuyết quân sự của Mỹ và các quốc gia có nền quốc phòng tiên tiến khác. Một sĩ quan tác chiến ở Ukraine lưu ý: “Việc dùng lực lượng áp đảo với nhiều xe bọc thép và xe tăng đi cùng để tấn công nhanh, tiêu diệt gọn (điều mà Washington và các đồng minh mong đợi cuộc phản công của Ukraine vào mùa hè này sẽ làm) về nguyên tắc không còn khả thi nữa. Hệ lụy không thể tránh khỏi của thực tế chiến trường mới là cuộc xung đột sẽ không sớm kết thúc”.
Trung sĩ Lục quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu Bradley Crawford (hiện đang huấn luyện lực lượng Ukraine gần Bakhmut với tư cách cá nhân) nhận định: “Những ngày của các cuộc tấn công bằng xe bọc thép quy mô lớn, chiếm nhiều km trên mặt đất cùng một lúc, giống như chúng tôi đã làm ở Iraq năm 2003 đã trở thành dĩ vãng trước bầy đàn drone ngày càng đông đúc và hiệu quả”.
Vì vậy, dù chiến tranh với một quốc gia yếu hơn, lợi thế quân sự tổng thể của Mỹ chưa hẳn sẽ dẫn đến chiến thắng như từng thấy trước đây.
_____________________
Ảnh: Ercin Erturk/Anadolu Agency via Getty Images |
Phillips O’Brien, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Đại học St. Andrews ở Scotland: “Nếu bạn có thể phá hủy một hệ thống nặng nề, rất tốn kém bằng một thứ giá rẻ hơn rất nhiều hoặc ngược lại thì sự chênh lệch sức mạnh giữa hai quốc gia không còn quan trọng nữa”.
______________
Ví dụ, mỗi drone FPV được sử dụng rộng rãi vào mùa hè này, có giá chỉ bằng một quả đạn pháo 155mm thông thường (khoảng $3,000) nhưng có thể vô hiệu hoá những chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực có giá hàng triệu đôla! Các drone thế hệ mới có độ chính xác và tốc độ để bắt kịp bất kỳ phương tiện bọc thép nào đang di chuyển, và nếu được điều khiển thành thạo, chúng đủ sức vô hiệu hóa những xe tăng và pháo hiện đại nhất.
Giá rẻ cũng có nghĩa là drone có thể dùng chống lại bất kỳ mục tiêu nào, từ xe hơi đến các nhóm binh sĩ nhỏ di chuyển trên đường cách trung tâm điều khiển vài dặm. Trung tâm “A” là một trong nhiều trung tâm điều khiển drone FPV của Ukraine Kể từ ngày Một Tháng Sáu, các đội FPV của trung tâm ở miền Đông và miền Nam Ukraine đã bắn trúng 113 xe tăng, 111 xe chiến đấu và 68 hệ thống pháo binh của Nga, gây thương vong cho gần 700 lính Nga.
Trong vài giờ vào một buổi sáng gần đây tại Chasiv Yar, Trung tâm “A” đã sử dụng drone FPV trang bị bom chống tăng kiểu cổ điển trong Đại chiến Thế giới Lần thứ hai để tiêu diệt một chiếc xe bán tải và hai xe quân sự đang đậu của đối phương. Họ cũng cho một drone lao vào cửa sổ của một tòa nhà cao tầng ở Bakhmut sau khi phát hiện một lính Nga (nghi đang điều khiển drone) vén rèm cửa quan sát. Một drone khác ghi lại hình ảnh các vụ nổ.
Người Nga cũng sử dụng nhiều drone “đáng gờm” và được nâng cấp thường xuyên. Mới đây, chỉ vài phút sau khi người của Trung tâm “A” cố gắng thiết lập một điểm điều khiển drone trên tòa nhà cao tầng Chasiv Yar, họ đã bị drone Nga phát hiện báo về để nã đạn pháo vào. Lính Ukraine nhanh chóng chạy khỏi tòa nhà rồi trở lại theo từng nhóm hai người, cách khoảng.
Drone đóng vai trò to lớn ở Ukraine ngay từ khi cuộc xâm lược toàn diện của Nga bắt đầu vào Tháng Hai, 2022. Cả số lượng và hiệu quả của chúng đều tăng lên đáng kể. Các loại drone mới, được Ukraine phát triển trong nước và nhập khẩu, liên tục xuất hiện trên chiến trường, gồm cả drone hải quân sử dụng thành công để gây thiệt hại cho Hạm đội Biển Đen Nga.
Tư lệnh Hải quân Ukraine, Phó Đô đốc Oleksiy Neizhpapa, nhận xét trong một cuộc phỏng vấn: “Nhiều drone đang làm tốt thì vài tháng sau đã trở thành lỗi thời, phải thiết kế lại để không bị đối phương gây nhiễu. Không chỉ drone mà không có vũ khí nào có ưu thế lâu dài. Chiến tranh là cú hích để công nghệ phát triển. Khi kẻ thù tìm ra thuốc giải độc thì phải thay đổi”.
Mức độ hiệu quả của từng loại vũ khí chưa bao giờ được nghiên cứu kỹ, từ thực tế chiến trường Ukraine, bằng lúc này (ảnh: Muhammed Enes Yildirim/Anadolu Agency via Getty Images) |
Bài học cho phương Tây
Lần cuối cùng Ukraine đạt được bước đột phá nhanh trên thực địa là cuộc tấn công ở hai khu vực Kharkov và Donetsk vào Tháng Chín và Tháng Mười năm 2022 khi quân Ukraine tận dụng được yếu tố bất ngờ của pháo binh. Cuộc tiến công của Ukraine vào Kherson Tháng Mười Một chỉ tiến hành được khi các hoả tiễn của hệ thống Himars cắt đứt hoạt động hậu cần của Nga đến mức quân Nga quyết định rút lui.
Tuy nhiên, kể từ mùa thu năm ngoái, Nga đã huy động hàng trăm ngàn binh sĩ, lấp đầy những lỗ hổng phòng thủ, xây dựng các bãi mìn dày đặc và công sự rộng lớn; và quan trọng hơn là đưa vào chiến trường rất nhiều drone. Vào Tháng Sáu, khi Ukraine bắt đầu mở cuộc phản công, mỗi khi lực lượng của họ tập hợp nhiều xe tăng và xe chiến đấu bộ binh, đội hình lại nhanh chóng bị drone Nga phát hiện và bị nã pháo, hoả tiển từ máy bay trực thăng và bầy đàn drone tấn công. Các bãi mìn dày đặc sẽ làm công việc “tiêu diệt” nếu quân Ukraine dám tiến tới.
Dĩ nhiên, quân Nga cũng phải đối mặt với số phận tương tự. Cụ thể là khi tập hợp một lực lượng xe tăng lớn để tiến vào thành phố Vuhledar trong Tháng Giêng 2023 sau khi tấn công bằng xe bọc thép ở quy mô nhỏ, quân Nga lập tức bị Ukraine phát hiện từ trên không và nhanh chóng tập kích phá hủy. Sau tổn thất nặng nề ban đầu về xe tăng và phương tiện chiến đấu do phương Tây cung cấp, quân đội Ukraine hiện đã chuyển sang hoạt động theo các nhóm nhỏ đến tiền tuyến bằng xe bọc thép chở quân rồi thận trọng chiếm từng hàng cây một.
Bằng cách này, quân Ukraine đã chiếm giữ được một số ngôi làng ở mặt trận phía Nam vùng Zaporizhzhia và Donetsk, đồng thời trong những ngày gần đây, xuyên thủng phòng tuyến của Nga ở phía Nam Bakhmut, chiếm hai làng Andriivka và Klishchiivka.
Trong khi đó, từ Tháng Mười Một đến Tháng Năm, Moscow không giành được chiến thắng nào quan trọng, trừ Bakhmut. Trung tướng Kyrylo Budanov, chỉ huy lực lượng quân báo Ukraine bộc bạch: “Thật không may, phần lớn cuộc tấn công của chúng tôi hiện nay là nhờ… đi bộ! Nó cũng giống như mùa thu năm ngoái, khi người Nga tấn công vào Bakhmut sử dụng rất ít xe tăng hạng nặng mà đi bộ là chủ yếu. Bây giờ vẫn thế, có khác là chuyển bên”.
Cuộc chiến đẫm máu tại Ukraine là loại xung đột mà quân đội Mỹ chưa từng trải qua kể từ cuộc chiến Triều Tiên vào thập niên 1950. Việc huấn luyện quân sự hiện đại và mua sắm quốc phòng của phương Tây đã được định hình qua nhiều thập niên chống lại các đối thủ yếu hơn nhiều ở những nơi như Iraq và Afghanistan. Quân đội Mỹ chỉ quan tâm phát triển các hệ thống vũ khí phức tạp, nặng nề và tốn kém, nay không thể giải quyết nhanh cuộc xung đột với một đối thủ tương đương.
“Rất nhiều loại thiết giáp của phương Tây không hoạt động tốt như mong đợi ở Ukraine vì nó được tạo ra không phải cho một cuộc chiến này mà dành cho những xung đột ở cường độ thấp hoặc trung bình – Taras Chmut, giám đốc Come Back Alive, một tổ chức gây quỹ để cung cấp cho Ukraine các drone, phương tiện và vũ khí khác nhận xét – Nếu bạn ném những thứ cồng kềnh và tốn tiền này vào một cuộc tấn công trên diện rộng, chúng sẽ không hoạt động hiệu quả! Ngay cả những chiếc xe tăng đắt tiền nhất cũng dễ bị tổn thương trước các drone rẻ tiền”.
Pháo binh là đơn vị tác chiến rất quan trọng trên chiến trường Ukraine (ảnh: Diego Herrera Carcedo/Anadolu Agency via Getty Images) |
Ông nhấn mạnh thêm: “Thay đổi hiện nay là cần tập trung vào việc cung cấp cho quân đội số lượng lớn hơn các hệ thống đơn giản và rẻ. Đó là bài học lịch sử của Đại chiến Thế giới Lần thứ hai, khi xe tăng T-34 của Liên Xô và xe tăng Sherman do Mỹ chế tạo thua đáng kể so với Tiger và Panther của Đức nhưng chúng dễ sản xuất hàng loạt và nhanh chóng đưa ra chiến trường với số lượng lớn và cũng dễ sửa chữa tại chỗ hơn”.
Các nhà hoạch định quân sự phương Tây rất quan tâm đến thực tế chiến trường mới. “Chúng ta có rất nhiều bài học để học ở Ukraine, kể cả bài học: Số lượng cũng cần như chất lượng! – Thiếu tướng Christian Freuding, phụ trách các hoạt động Ukraine tại Bộ Quốc phòng Đức, nhận định. Ở phương Tây, chúng ta đã giảm quân đội, chúng ta đã giảm lượng dự trữ. Nhưng số lượng vẫn là yêu cầu cơ bản”.
Khi nói đến xe tăng, cuộc chiến Ukraine cho thấy các trận đấu giữa xe tăng và xe tăng rất hiếm hoi. Điều đó có nghĩa là mức tiên tiến của xe tăng không còn quan trọng như trước. Theo các quan chức Ukraine, có chưa đến 5% số xe tăng địch phá hủy kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
Đa số là trúng mìn, pháo, hoả tiễn chống tăng và drone. Trong khi vẫn phụ thuộc vào xe tăng, pháo và bệ phóng hoả tiễn do phương Tây cung cấp, Ukraine trông cậy ngày càng nhiều vào binh đoàn drone do khoảng 200 nhà sản xuất trong nước chế tạo; từ những chiếc FPV giá rẻ đến những drone có cánh tầm xa để tiến hành các cuộc tấn công gần như hàng ngày vào sâu bên trong lãnh thổ Nga, nơi Kyiv không được phép sử dụng đạn pháo của phương Tây – dẫn lại từ Wall Street Journal.
Nguồn : https://saigonnhonews.com/thoi-su/the-gioi/cuoc-chien-ukraine-dinh-hinh-lai-chien-tranh-hien-dai/
Friday, February 9, 2024
Friday, January 26, 2024
HIỆP ĐỊNH PARIS 27/01/1973 : KISSINGER PHẢN BỘI CẢ VIỆT NAM CỘNG HÒA LẪN HOA KỲ
TS Nguyễn Tiến Hưng
Bốn năm mật đàm là hư vô
- Điều 2 của '10 Điểm' do MTGP đưa ra năm 1969 chỉ đòi là:
- Điều 5 của Hiệp định Paris năm 1973:
***